10 Nhận định sau đây đúng
hay sai? Giải thích? “quản lý nhà nước về kinh tế là một khoa học”
Quản lý Nhà nước về kinh tế là một khoa
học vì nó có đối tượng nghiên cứu riêng và có nhiệm vụ phải thực hiện riêng. Đó
là các quy luật và các vấn đề mang tính quy luật của các mối quan hệ trực tiếp
và gián tiếp giữa các chủ thể tham gia các hoạt động kinh tế của xã hội.
Tính khoa học của quản lý Nhà nước về kinh
tế có nghĩa là hoạt động quản lý của Nhà nước trên thực tế không thể phụ thuộc
vào ý chí chủ quan hay sở thích của một cơ quan Nhà nước hay cá nhân nào mà phải
dựa vào các nguyên tắc, các phương pháp, xuất phát từ thực tiễn và được thực
tiễn kiểm nghiệm, tức là xuất phát từ các quy luật khách quan và điều kiện cụ
thể của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn phát triển.
Để quản lý Nhà nước mang tính khoa học cần:
- Tích cực nhận thức các quy luật khách quan, tổng kết thực tiễn
để đề ra nguyên lý cho lĩnh vực hoạt động quản lý của Nhà nước về kinh tế.
- Tổng kết kinh nghiệm, những mô hình quản lý kinh tế của Nhà nước
trên thế giới.
- Áp dụng các phương pháp đo lường định lượng hiện đại, sự đánh
giá khách quan các quá trình kinh tế.
- Nghiên cứu toàn diện đồng bộ các hoạt động của nền kinh tế,
không chỉ giới hạn ở mặt kinh tế – kỹ thuật mà còn phải suy tính đến các mặt x•
hội và tâm lý tức là phải giải quyết tốt vấn đề thực chất và bản chất của quản
lý.
11. Nhận định sau đây đúng
hay sai? Giải thích? quản lý nhà nước về kinh tế là nghệ thuật.
Quản lý Nhà nước về kinh tế còn là một nghệ thuật và là một nghề
vì nó lệ thuộc không nhỏ vào trình độ nghề nghiệp, nhân cách, bản lĩnh của đội
ngũ cán bộ quản lý kinh tế, phong cách làm việc, phương pháp và hình thức tổ
chức quản lý; khả năng thích nghi cao hay thấp v.v… của bộ máy quản lý kinh tế
của Nhà nước.
Tính nghệ thuật của quản lý Nhà nước về kinh tế thể hiện ở việc xử
lý linh hoạt các tình huống phong phú trong thực tiễn kinh tế trên cơ sở các
nguyên lý khoa học. Bản thân khoa học không thể đua ra câu trả lời cho mọi tình
huống trong hoạt động thực tiễn. Nó chỉ có thể đưa ra các nguyên lý khoa học là
cơ sở cho các hoạt động quản lý thực tế. Còn vận dụng những nguyên lý này vào
thực tiễn cuộc sống phụ thuộc nhiều vào kiến thức, ý chí và tài năng của các
nhà quản lý kinh tế. Kết quả của nghệ thuật quản lý là đưa ra quyết định quản
lý hợp lý tối ưu nhất cho một tình huống quản ly.
12. Để đảm bảo sự lãnh đạo
của đảng, trong quản lý nhà nước về kinh tế cần tuân thủ những nội dung gì?
Đảng đề ra đường lối chiến lược phát triễn
Giữ vững định hướng XHCN
Kiên quyết chống lại 4 nguy cơ đe dọa đất nước: tụt hậu so với
k.tế, diễn biến hòa bình, chênh lệch xã hội, quan lieu tham nhũng
Xây dựng và thực hiện chính sách KT-XH
I. Sự cần thiết khách quan của quản lý nhà
nướcđối với nền kinh tế:
Nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế bởi các lý do sau:
Nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế bởi các lý do sau:
a. Tính giai cấp trong kinh tế và bản chất giai
cấp của nhà nước.
Nhà nước là sản phẩm của xã hội có phân chia và
đối kháng giai cấp, nó được giai cấp thống trị về kinh tế sinh ra để bảo vệ
quyền lợi kinh tế của giai cấp thống trị đó. Nói cách khác, nhà nước có sứ mạng
và nhiệm vụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị về kinh tế.
Tính giai cấp trong kinh tế thể hiện ở vị thế của
giai cấp đó đối với tư liệu sản xuất, vị thế trong quản lý sản xuất, cơ sở vật
chất, vị thế trong phân chia lợi ích kinh tế. Theo đó, trong nền kinh tế Tư bản
chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người làm công, không có tư liệu sản
xuất, ở vị trí bị quản lý và bị bóc lột; và giai cấp tư sản, những chủ sở hữu
về tư liệu sản xuất, quản lý, phân phối lợi nhuận và bóc lột. Vậy giai cấp chỉ
hình thành trong kinh tế và cuộc đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giành 3
vị thế trong kinh tế.
Kết hợp 2 mặt vấn đề, ta thấy trong kinh tế có
đấu tranh giai cấp, nhà nước là 1 công cụ của giai cấp. Nhà nước không thể đứng
ngoài cuộc đấu tranh giai cấp mà phải tham gia vào mới thể hiện hết vai trò
công cụ của mình.
b. Tính mâu thuẫn gay gắt về lợi ích trong lĩnh
vực kinh tế:
Trong nền kinh tế thị trường chứa đựng những mâu
thuẫn cơ bản, đó là những mâu thuẫn giữa các doanh nhân với nhau, mâu thuẫn
giữa chủ với thợ trong các doanh nghiệp có bóc lột lao động và mâu thuẫn giữa
giới sản xuất kinh doanh với toàn thể cộng đồng. Những mâu thuẫn cơ bản này có
tính phổ biến, thường xuyên vì nó động chạm đến tất cả mọi người không trừ một
ai, vì khi tham gia vào kinh doanh, từ doanh nhân đến người lao động, người
tiêu dùng đều có va chạm với nhau về kinh tế. Hơn nữa những mâu thuẫn đó còn
mang tính căn bản, vì là mâu thuẫn sinh tồn liên quan đến sự sống chết của con
người.
Do tính chất của mâu thuẫn như trên việc hoà giải
các mâu thuẫn này phải do nhà nước chứ không ai khác, và phải giải quyết triệt
để, nếu không sẽ có tác dụng ngược lại, chỉ có nhà nước mới làm được điều đó vì
nhà nước có sức mạnh, có những quyền lực đặc biệt, được tạo ra bởi thể chế đặc
biệt. Nhà nước cộng hòa dân chủ là sức mạnh của toàn dân, có những quyền mà
nhân dân trao cho, chỉ có nhà nước can thiệp vào giải quyết mâu thuẫn thì trật
tự kinh tế mới cơ bản được thiết lập.
c. Tính khó khăn phức tạp của sự nghiệp kinh tế:
c. Tính khó khăn phức tạp của sự nghiệp kinh tế:
Hoạt động kinh tế cần nhiều điều kiện chủ quan,
đó chính là phải có ý chí làm giàu, muốn làm giàu phải có ý chí, tuy nhiên hoạt
động làm giàu còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có sự tin tưởng vào chế
độ kinh tế, chính trị, vào tính đúng đắn của sự lựa chọn đầu tư, lựa chọn giải
pháp..., những điều này phụ thuộc rất lớn vào nhà nước, vào chế độ xã hội.
Phải có tri thức làm giàu, người làm kinh doanh
cần phải có 2 nhóm tri thức cơ bản, đó là tri thức về sản xuất kinh doanh và
thông tin toàn diện trong và ngoài nước có liên quan đến việc làm kinh tế. Tri
thức về sản xuất kinh doanh bao gồm những kiến thức khoa học kỹ thuật, công
nghệ sản xuất có thể học được từ trường lớp, sách vở và thực tiễn. Còn nhóm thứ
2 bao gồm nhiều thông tin như kinh tế kỹ thuật, chính trị, quân sự trong và
ngoài nước, giá cả, quy hoạch..., chỉ có nhà nước mới có. Do đó, nếu không có
nhà nước chắc chắn các nhà doanh nghiệp không đủ tầm nhìn thấy tương lai.
Phải có phương tiện sản xuất kinh doanh, trước
tiên là vốn, nhà doanh nghiệp có thể huy động vốn từ nhiều nguồn, có khi không
nhất thiết phải vay vốn của nhà nước nhưng doanh nhân vẫn cần vay vốn của nhà
nước do không tin tưởng các nguồn khác. Ngoài nguồn vốn ra, phải cần có hệ
thống kết cấu hạ tầng trong đó sát với người làm kinh tế thị trường, nhất là hệ
thống chợ, điều này chỉ có nhà nước mới tạo ra được, chỉ có nhà nước quản lý
chợ mới có thể làm cho mọi người yên tâm khi tham gia thị trường. Hoạt động của
chợ rất phức tạp, khó bảo vệ, bất an nhất nên các loại chợ đều cần có sự bảo hộ
của nhà nước.
Phải có môi trường kinh doanh, đó là môi trường
bè bạn và môi trường an toàn cho sản xuất kinh doanh. Trong kinh doanh cần phải
có đối tác, để tìm được đối tác như ý ở trong hay ngoài nước, tự thân nhà doanh
nghiệp không dể tìm, do vậy nhà nước là 1 chỗ dựa quan trọng cho các nhà doanh
nghiệp.
Môi trường an toàn là an toàn cho tính mạng và
tài sản của doanh nhân, chỉ có nhà nước mới là người bảo vệ tốt nhất. Hơn nữa
môi trường an toàn là môi trường không có chiến tranh, không có tội phạm hình
sự, ngăn ngừa được thiên tai hay dự báo để phòng tránh thiên tai. Sự an toàn
này trừ nhà nước không ai tạo ra được cho doanh nhân.
d. Sự có mặt của kinh tế Nhà nước trong kinh tế
quốc dân, đây là lý do trực tiếp nhất khiến Nhà nước phải can thiệp vào nền
kinh tế quốc dân.
Kinh tế nhà nước bao gồm tài nguyên quốc gia, dự
trữ quốc gia về tiền, vàng bạc, đá quý và vật tư, kết cấu hạ tầng, toàn bộ vốn
nằm trong các doanh nghiệp. Nhà nước cần có kinh tế riêng của mình để thực hiện
kích thích hay cưỡng chế kinh tế, nhà nước cần có lực lượng kinh tế làm công cụ
quản lý xã hội khi các công cụ khác tỏ ra bất cập trong 1 số trường hợp nhất
định. Nhà nước cần có lực lượng kinh tế riêng, cụ thể là các doanh nghiệp nhà
nước để sản xuất và cung ứng những hàng hóa, dịch vụ mà khu vực tư nhân không
làm được. Hơn nữa nhà nước cần có thực lực kinh tế để thực hiện chính sách xã
hội.
Kinh tế nhà nước là những vật cụ thể phải cần có
con người cụ thể đứng ra quản lý, vì nhà nước là 1 phạm trù trừu tượng. Mà khi
giao cho những nhóm người cụ thể quản lý sẽ dẫn đến 2 nguy cơ là: công sản có
thể bị lợi dụng để mưu lợi tư, bị tham ô lãng phí, người được nhà nước ủy thác
quản lý có thể không đủ khả năng làm cho đơn vị của mình thực hiện đúng vai
trò, chức năng, nhiệm vụ mà nhà nước đặt ra cho kinh tế nhà nước. Xuất phát từ
những lý do đó mà nhà nước phải quản lý đối với kinh tế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét